6 Sept 2015

Bàn về cuộc khủng hoảng tị nạn

Vừa xem cuộc đối thoại về khủng hoảng di cư – thách thức lớn đối với châu âu trên VTV1. Tôi bèn có đôi lời trao đổi.



 Câu chuyện mở ra từ việc bức ảnh của cậu bé ba tuổi bị chết đuối dạt vào bờ biển được up lên mạng và được mọi người share rất nhiều. Không khó để liên tưởng đến bức ảnh “em bé Napalm” do Nick Út chụp vào năm 72, bức ảnh đã phơi bày sự thực trần trụi về một trong những cuộc chiến tranh mà Mỹ sử dụng luận điệu quen thuộc “chiến tranh giải phóng con người,” chống sự lây lan của chủ nghĩa cộng sản như một thứ bệnh dịch nhưng một phần rất lớn của hiện thực bị bỏ qua đó là việc Liên Bang Soviet và Mỹ hiện tại đang cạnh tranh chế độ để trở thành siêu cường quốc. Bản chất của chiến tranh là như vậy – nó dẫn đến cái chết của những con người yếu ớt và cần sự bảo vệ nhất – người già, em bé, đàn bà, người bệnh, người nghèo. Những cái chết được đặt tên là “mất mát ngoài dự tính” (collateral damage) – ngay cả khi tấn công dân làng và người dân vô tội là một trong những chiến lược quân sự nhằm đánh vào tinh thần người lính. Cái câu nói, all is fair in love and war không gì có thể sai hơn – trong chiến tranh, tất cả mọi sự thực đều là một phiên bản có thể hoàn chỉnh hơn của những lời nói dối. Bức ảnh em bé Napalm sau khi trở thành trang bìa của tờ New York Times vào ngày 10/6/72 thì đã được coi là một trong những bức ảnh tiêu biểu mang tính ám ảnh nhất cho cuộc chiến tranh Việt Nam. Và bởi vậy, luận điệu hay những cuộc đối thoại về chiến tranh ở Việt Nam sẽ không bao giờ còn có thể chỉ xoay quanh những con số hay là sự giải phóng tự do cho những nhóm người trừu tượng không có mặt nữa – hậu quả của cuộc chiến tranh được hiển thị và ghi nhận rõ ràng – mặc dù nhiếp ảnh cũng chỉ có thể thể hiện được một góc độ và một tích tắc của lịch sử - nạn nhân của bom đạn có một gương mặt và một thân hình và một cái tên, và hàng triệu con người trên thế giới đều có thể nhìn thấy một khoảnh khắc trong cuộc đời em ấy – khoảnh khắc khi em trần truồng chạy và la hét bởi bom napalm đã đốt cháy nhà và quần áo của em.


Hơn bốn mươi năm sau, một bức ảnh khác lại làm cộng đồng rúng động. Khác một điều, lần này bức ảnh mang tính lan tỏa nhanh chóng hơn nhờ sự trợ giúp của mạng Internet. Những cư dân mạng ngây thơ và xa lạ với những cuộc chiến tranh rùng mình trước hình ảnh một em nhỏ bụ bẫm nằm như ngủ trên bờ biển – và những cuộc đối thoại về dân tị nạn và vấn đề con người bỗng nhiên nổ ra. Đột nhiên nhóm dân tị nạn – những con người từ khắp mọi nơi trên thế giới, vốn tồn tại hàng chục năm nay và vẫn di chuyển qua những chuyến tàu, những chuyến đi bộ xuyên quốc gia, trên những cái xe bus ọp ẹp quá tải, trên những con thuyền chở quá nặng qua những đại dương – được khoác lên một gương mặt và một cái tên. Người ta ngỡ ngàng nhận ra - ồ, thì ra dân tị nạn không phải chỉ là một biểu tượng bị chủng tộc hóa – một người đàn ông rách rưới râu ria đen đúa, người sẽ nát rượu và bạo lực, sẽ xâm nhập vào quốc gia tiếp nhận để hút cạn tài nguyên và bảo an xã hội, sẽ lười biếng và làm lũng đoạn thị trường kinh tế bản địa – trái lại, dân tị nạn cũng là những người “như chúng ta,” là những người cha, những người mẹ, những người con, đã phải rời bỏ mảnh đất quê hương của mình để đi sang một vùng đất khác nơi họ có thể sống. Sống, nghĩa là không chết.

Người ta hay gọi những nơi tiếp nhận dân tị nạn là “vùng đất hứa,” và rằng những người tị nạn đang đi tìm “một cuộc sống tốt đẹp hơn.” Ở đây, tôi muốn nhấn mạnh đến sức mạnh của ngôn ngữ đã tạo nên một hình ảnh sai lệch về bản chất của vấn đề tị nạn. Tất nhiên, đã có những ý kiến đưa ra về việc phân biệt giữa “tị nạn” và “nhập cư” dựa trên yếu tố kinh tế - và đặt ra câu hỏi – đối với những sự nhập cư bắt buộc, khi người dân sống ở một vùng đất mà không có chiến tranh nhưng cũng không thể sinh tồn được, thì sự di dời vủa họ phải gọi là nhập cư hay gọi là tị nạn? Tuy nhiên, trong bối cảnh tị nạn chiến tranh, thì cái mà chúng ta coi là “vùng đất hứa” đối với họ hay “cuộc sống tốt đẹp hơn” chỉ có nghĩa là một nơi không có bom rơi trên đầu và đạn bay qua cửa. Cũng phải nói thêm, hẳn là tôi không thể quay đầu trước những luồng ý kiến cũng vô cùng hợp lý đặt câu hỏi về thảm họa cơn bão Katrina khi xảy ra đã để lại – đó là sự so sánh giữa cái gọi là “chiến trường” đối với tình cảnh bị bỏ mặc của những xóm dân nghèo đa phần là dân da màu, để đến nỗi mà một chính khách nọ đã nói: “điều mà nước Mỹ chưa làm được, chúa đã giúp chúng ta.(loại bỏ dân da đen và các xóm dân nghèo)” (Richard H. Baker, 10 kì chính khách của phe Cộng Hòa: "We finally cleaned up public housing in New Orleans. We couldn't do it, but God did.") Những cuộc tàn sát mang tính chất khác nhau – một bên là sử dụng súng đạn với những lý do chính trị, còn một bên chỉ là sự bỏ mặc và cô lập về kinh tế - nhưng kết quả sẽ giống nhau – những cá nhân yếu ớt nhất sẽ không thể sinh tồn.

Quay trở lại câu chuyện người dân tị nạn “cũng là người”: Điều cơ bản như vậy mà không phải ai cũng hiểu. Từ trước đến giờ, người dân tị nạn bị coi như một tập thể “dị biệt,” một hiểm họa, mối nguy đối với những cộng đồng bản địa và quốc gia tiếp nhận, thứ sẽ đâm xuyên qua cái đường biên giới được coi như một tấm màng bảo vệ vô hình giữa cái gọi là “chúng ta” và cái gọi là “chúng nó.” Trong cuộc đối thoại ở VTV1 lần này, người dân tị nạn từ Syria được ví như những cơn bão càn quét qua các nước liên minh châu Âu, như một cơn khủng hoảng cần giải quyết, như một vấn đề khiến người ta nhức óc và dẫn đến các cuộc họp thượng đỉnh trong đó những lãnh đạo cấp cao vuốt mồ hôi lên tiếng: “không thể tiếp nhận được vì không có nguồn lực.” Tất nhiên, đó là những vấn đề có thực, rằng thì tiến sĩ Đỗ Sơn Hải nói không sai – không thể cứ cho vào theo kiểu “lá lành đùm lá rách” được mà đây là cuộc di dân trên diện rộng và mang tính hệ thống, và bởi vậy sẽ yêu cầu một sự thay đổi về chính sách và thể chế, kết hợp với phân bổ các nguồn tài nguyên và nguồn lực đối với các nhóm người trong xã hội.

Tuy nhiên thì, vấn đề mà cách tiếp cận này đã vô tình hoặc hữu ý bỏ qua: đó là sự thật rằng nếu như tiếp nhận những người này, thì chỉ có “lá rách ít đùm lá rách nhiều,” chứ “lá lành” thì hẳn là không hề hấn gì. Vì sao lại vậy? Vì những trợ cấp xã hội xuất phát từ tiền thuế và từ chính sách bảo an của nhà nước là nguồn lực chung cho người nghèo, dân ngụ cư, dân nhập cư và những nhóm người kém điều kiện trong xã hội, nay sẽ phải nới rộng cho thêm rất nhiều. Trong khi đó, nhóm cư dân thượng và trung thượng lưu trong xã hội, người sống trong những khu “tài sản riêng” của họ sẽ hoàn toàn không ảnh hưởng – và sự phân hóa giàu nghèo được coi như một điều đương nhiên trong một xã hội chính là một phần to lớn dẫn đến việc những nhóm dân tị nạn hoặc nhập cư bị coi như kẻ thù – ngay cả đối với những người nghèo đáng lẽ ra phải rất thấu hiểu hoàn cảnh của họ.

Điều cuối cùng, mà tôi sẽ nói ngắn gọn, nhưng không thể không nói: bức ảnh của em nhỏ bị chết chìm trong quá trình vượt biển di dân không thể không gợi nhắc đến thuyền nhân Việt Nam di tản sau chiến tranh – một điều mà sinh ra và lớn lên trong chế độ miền Bắc XHCN tôi ít khi hay gần như không bao giờ nghe đến. Tị nạn hay ngụ cư là những vấn đề mà với tư cách một đất nước kém phát triển và hậu thực dân, tồn tại rất nhiều trong bối cảnh xã hội của chúng ta. Thế nhưng ngay cả đối với giai cấp học thuật, tinh hoa ở trong nước, chúng ta vẫn thực sự chưa có nhiều những cuộc đối thoại và hệ thống kiến thức về các vấn đề này – đặc biệt là khi bản thân chúng ta sản sinh ra rất nhiều những số phận như vậy. Và cũng như cái cách mà chúng ta đang nói về người dân tị nạn Syria, những thuyền nhân và dân tị nạn Việt Nam đi trước và sau 75 cũng bị coi như những dịch bệnh đến từ thế giới thứ ba, chịu sự ghẻ lạnh của chính quyền và nhân dân sở tại, ngay cả khi điểm đến của họ là Mỹ - nơi được mệnh danh là vùng đất hứa đón chào tất cả mọi mảnh đời bất hạnh. Không đọc sâu và nhiều vì ngành chính của tôi không phải là critical immigrant and refugee studies, nhưng đủ để biết về cái cách mà dân tị nạn bị “phi nhân hóa” (dehumanized) và coi như không phải con người, hoặc là cái cách mà tị nạn bị coi như một “vấn đề” cần giải quyết, như là dân tị nạn Syria bị coi là cuộc khủng hoảng đối với châu Âu, còn sự lún sâu về vũ trang và sự ảnh hưởng của NATO trong cuộc chiến ở Syria thì lại hoàn toàn không được nhắc đến trong cuộc đối thoại.

Tị thì nói, nhưng nạn thì sao? Không có chiến tranh, thì sẽ không có dân tị nạn. Không có độc quyền gò ép kinh tế, thì sẽ không có dân nhập cư kinh tế. Hãy nghĩ về điểm khởi đầu.