14 Jul 2016

Từ chuyện lăng nhục hình thể nói chuyện Nữ quyền luận giao-tầng

(From talking body shame to understanding Intersectional feminism)


Tự sự cơ thể giới hay câu chuyện béo gầy

Mỗi mùa hè trở về Việt Nam tôi lại được đón bằng một câu chào, phần đa là từ phía gia đình người thân, những người gần gụi đủ để cảm thấy họ nên nhắc nhở tôi rằng “Ly béo lên đấy,” “lại lên cân à,” “sao dạo này lại béo thế này.” Lần đầu về nước, là ba năm trước, sau khi đã tha hương ba năm liền không giao lưu trực tiếp với văn hóa quê nhà, tôi khó chịu kinh khủng. Không giống như một số người bạn nặng cân Latina ở Mỹ mà tôi gặp bị sốc khi nghe tôi nói chuyện với mẹ qua facetime và bà cụ vui vẻ bảo tôi rằng “eo ôi mặt Ly dạo này tròn như cái đĩa” - một loại lời chê mà tôi cho là đã đáng yêu lắm rồi, người bạn của tôi nghệt ra và bảo “tại sao lại có thể ác mồm như thế được, sao lại thiếu tôn trọng nhau như thế” - tôi thành ra lại đứng tần ngần ở giữa không biết phải giải thích thế nào để cái gọi là “nền văn hóa Việt Nam” mà tôi đang phải đại diện ở đây không bị mang tiếng là đầy rẫy những phân biệt giới, lăng nhục hình thể là chuyện cơm bữa, và rằng con người Việt Nam toàn là những người thô lỗ. Nhưng một cách nào đó, tôi lại cũng ngờ ngợ nhận ra những độc tính của văn hóa lăng nhục hình thể đã ngấm vào người tôi tận ngọn như thế nào, đã thành một phần của bản thân tôi như thế nào, và đã làm méo mó lăng kính tư duy, trải nghiệm cuộc sống, cũng như nhân cách của tôi như thế nào.

Đấy là chuyện cuả ba bốn năm trước. Từ hồi mới sang Mỹ tôi cũng chỉ là hơi tròn trịa tí thôi, nhưng sang một cái văn hóa đồ ăn thay đổi, thời gian đầu không có xe cộ việc đi chợ phụ thuộc vào người khác nên nhiều khi cũng phải ăn hàng ăn quán, và ở nơi tôi sống thì các cửa hàng ăn nhanh thì đầy rẫy và rất rẻ so với việc ăn nhà hàng cho gọi món đàng hoàng có rau có thịt. Các bạn cứ tưởng tượng sinh viên làm tiền Việt tiêu tiền đô, trả tiền nhà xong thì cả nhà cả cửa còn được tầm $200 ăn một tháng, thì việc chọn ăn một đĩa salad có vài cọng xà lách một ít hạt điều vài cọng rau thơm giá $8 hay ăn một cái burrito to bằng bắp tay đầy cơm thịt và no cả ngày giá $5 mỗi tội chỉ có tí bắp cải xắt nhỏ thì con người kinh tế là tôi sẽ chọn cái gì. Trong một năm đầu tôi tăng 10 kg, nhưng điều này cũng không làm tôi suy nghĩ nhiều lắm, vì mục đích của tôi sang là để học và nghiên cứu, vả lại tuy bên này cái văn hóa lăng nhục hình thể cũng đầy rẫy, người nữ cũng ám ảnh chuyện giảm cân xuống còn size 0 lắm, nhưng được cái người ta chỉ vô duyên trên mạng là nhiều chứ gặp nhau người ta cũng không đến nỗi nhận xét cân nặng, nên tôi cũng quên đi. Quan trọng hơn nữa, những vấn đề khiến tôi lưu tâm hơn, không chỉ là chuyện học hành đỗ đạt, mà còn là việc tôi tiếp nhận thêm những tri thức về bất bình đẳng xã hội, về quyền lực thể chế, về bóc lột lao động, về tình trạng tù tội, về phân biệt chủng tộc, về bạo lực cảnh sát, về chính trị văn hóa, về hàng trăm những vấn đề liên quan đến sống chết của những người quanh tôi, có gương mặt giống và khác tôi, bởi vậy mà chuyện béo nó gầy như một cái que tăm tôi dắt vào bên tai và quên biến mất. Nói đơn giản, xã hội thì đang điên đảo thì cân nặng là cái gì.

Chỉ đến khi tôi về Việt Nam thăm nhà lần đầu tiên, lại phải đối mặt với những câu chào cao hơn mâm cỗ và trong mâm cỗ đấy thì có cả một cái đầu heo sữa kèm tám món gà luộc canh bóng các thể loại, thì tôi mới chợt nhớ ra, lăng nhục hình thể người nữ vẫn là một vấn nạn to tát làm sao, cá nhân làm sao, gần nhà làm sao, và cũng đầy tính chính trị xã hội làm sao. Một cô nọ tôi biết thích nhất gặp nhau câu đầu là nói chuyện tăng giảm cân, một cô khác thì giữa chốn tụ họp rao giá với con gái cô vừa đẻ là giảm cân đi mẹ cho tiền, gần đây nhất người mẹ của tôi nhận xét tôi mà gầy đi thì xinh lắm đi dạy học sinh viên nam sẽ mê tít và quả này thì tôi đã phải gượng hết sức bình sinh để không lật mâm bởi vì cái tư duy rằng đàn bà đẹp là để cho đàn ông hưởng thụ và rằng giá trị của đàn bà nằm toàn bộ ở vẻ ngoài - ôi cái sự độc ác trong tư duy hệ tư tưởng nam quyền mà người nữ đã khắc cốt ghi tâm đến mức những ngôn ngữ thoát ra khỏi mồm cũng sặc mùi bị trị. Cách đây ba năm tôi đã lên tiếng, thậm chí hơi gay gắt đối với những người quen người thân khi chứng kiến những cảnh như vậy, dù nói tôi hay không. Nhưng năm nay thì tôi nói riêng thôi, tôi cũng không biết là do tôi phát chán với việc có mỗi một chuyện mà phải nói đi nói lại, hay là vì tôi thấy buồn vì đến những người sinh ra tôi cũng lại đang nhìn nhận tôi bằng cái định kiến xã hội đã quy chuẩn rằng tôi quá khổ so với một cơ thể mà người nữ phải có. Cái cơ thể nhỏ bé mình hạc xương mai chiếm ít diện tích không gian và lúc nào cũng phải co khép lại, với những thứ thời trang phụ kiện làm sao để họ đi chậm lại, mong manh hơn, với hình chuẩn cái đẹp được tạo dựng cho người khác, cụ thể là đàn ông, tiêu thụ.

Tôi vốn không thích phong cách tự sự cho lắm, cũng như không muốn nói nhiều về chuyện béo gầy, vì đúng là lăng nhục hình thể là một phần rất lớn của phân biệt giới trong xã hội nam quyền, và bàn cãi về phân biệt hình thể rất dễ dẫn đến những câu trả lời dễ dàng hay những bài học bản thân kiểu như “hãy khác lạ, hãy sáng tạo, hãy yêu bản thân mình, tất cả mọi cơ thể đều đẹp” giống như các chương trình quảng cáo hay làm. Mấy hãng mỹ phẩm với dầu gội đầu kiểu Pantene với Dove ở Mỹ rất hay có mấy cái chiến dịch quảng cáo nhằm hướng tới khuyên bảo chị em phải tự yêu thương bản thân mình, hoặc là các hãng thời trang sử dụng ma nơ canh có size người trông hơi tròn trịa tí là coi như chị em bên này mừng rơi nước mắt, cảm giác như mình được thừa nhận là có tồn tại trong xã hội, chứ không phải thuộc nhóm dư thừa, dự bị, chỉ được chấp nhận khi tập gym giảm cân thành công thành size 0.

Tôi lớn lên như một đứa trẻ mũm mĩm, sinh ra vào thời mở cửa khi trẻ con các nhà khác gầy tong teo thì tôi béo trắng nên rất được yêu thích, nhưng cho đến một thời điểm nào đó mà chính xác là lên cấp 2, thì cái sự béo trắng của tôi hết được yêu thích, vì lúc đấy tôi không được nhìn nhận như một đứa trẻ nữa, mà nhân dạng giới của tôi đã được lồng vào cách người ta nhìn tôi. Quá trình xã hội hóa là như vậy, trẻ con dưới 10 tuổi thì chưa bị sử dụng góc nhìn về con người hình thể lý tưởng nhưng trẻ em gái đến tuổi dậy thì một cái liền bị đánh giá như “những người đàn bà tương lai đang trong quá trình rèn luyện.” Việc tôi mười hai tuổi, béo tốt mũm mĩm, kính cận chỉ thích đọc truyện tranh vẽ vời và cũng chả quan tâm đến con trai hay việc mình trông như thế nào, thật là một nỗi đáng lo. Tôi sẽ skip toàn bộ những gì tôi đã trải qua (bị ép uổng hoặc đôi lúc cũng tự thân cố gắng) để giảm cân cho đến tận năm 19 tuổi khi tôi bắt đầu hẹn hò thì đột nhiên tôi lại gầy đi, và phải tự nhận là gầy đi thì đúng là tôi cũng xinh vồn và suốt thời kì từ 19 cho đến đỉnh điểm là năm 21 tuổi tôi đã bị rơi vào một cơn khủng hoảng hình thể trầm trọng khi tất cả những gì trong đầu tôi là nỗi ám ảnh giảm cân. Tôi không mấy khi nói về thời gian này, nó là một khoảng thời gian rất đen tối sau hậu trường, nhưng thứ được trưng bày bên ngoài thì lại đúng chuẩn nên tôi rất được ưa chuộng. Tôi tóc dài, trang điểm, không béo, mặc váy, đi giày cao gót, và tìm kiếm sự phê chuẩn từ những người xung quanh. Tôi căm ghét bản thân đến mức tôi cần phải có những người lạ xung quanh khen ngợi và trầm trồ, và tôi chấp nhận cái giá đánh đổi là bỏ đói bản thân, ăn rồi móc họng nôn, hút thuốc qua bữa, và mặc những cái corset bó chặt người đến tức ngực khó thở, cộng với những cơn chấn động tâm lý lúc nửa đêm về sáng khi tôi không thể kiềm chế được mà đập phá đồ đạc và đấm vỡ gương. Không vấn đề gì, vì tôi giấu nó rất kĩ, và những gì mà người xung quanh kể cả gia đình của tôi nhìn thấy chỉ là tôi là một trường hợp giảm cân thành công. Tôi đã ghét bản thân làm sao khi chấp nhận cắt bỏ da thịt của bản thân chỉ để tìm kiếm cảm giác được thừa nhận và được yêu thương. Và cặn dư của những điều này theo đuổi tôi đến tận bây giờ, khi mối quan hệ của tôi với thức ăn đã trở thành một loại bạn cùng nhà chán ghét lẫn nhau, khi tôi coi chuyện bỏ đói bản thân là một chuyện bình thường, không phải vì tôi muốn giảm cân nữa, mà bởi vì cơ thể tôi đã mất thói quen thông báo với tôi khi nào tôi cần ăn hay ngủ.

Ngày nọ khi tôi đọc được tin em gái đã áp dụng sai bài master cleanse, bỏ bữa hòng giảm cân mà đến nỗi thiếu chất dinh dưỡng và chết não, tôi đã ngồi yên một lúc lâu, nước mắt chảy ròng ròng, vì tôi có thể tưởng tượng ra những ánh mắt em đã phải nhận, những lời xì xào bán tán sau lưng, những lời lăng mạ trước mắt của bố mẹ, thầy cô, bạn bè em, của những bạn em thầm thích, của những người lạ trên đường, tổng thể những bộ mặt của một xã hội nam quyền cảm thấy vô cùng thoải mái trong việc sai khiến và quyết định rằng em không xứng đáng được đối xử như một con người bình thường và không đáng được tôn trọng vì em thừa cân. Em chưa đầy mười tám tuổi, và em bị chết não, vì em muốn giảm cân, và trong nỗ lực tự cắt bỏ bản thân để được yêu thương em đã cắt bỏ chính sự tồn tại của mình. Và tôi cảm thấy đau đớn, bởi vì ngay cả khi tôi có thể đứng trên một tảng lý thuyết để khai sáng cho chính bản thân mình và cảm thấy yên ổn với ngoại hình của tôi và mặc kệ dư luận, ở ngoài kia sẽ có những em gái bắt đầu ăn kiêng từ năm lên mười, và sẽ có những người mẹ người chị người dì thoải mái bắt con nhỏ ăn kiêng hoặc gieo vào đầu các em tư duy rằng em phải gầy mới đáng được yêu thương. Và có những người mẹ vừa qua cửa mả đã lo lắng về chuyện phải giảm cân kẻo chồng chán ghét, vừa ghen tị vừa ghét bỏ những cô gái thon thả bên ngoài cho rằng họ chính là lý do tại sao những người đàn ông trong đời quay lưng lại với mình.

Đến giao tầng căn tính xã hội và quyền lực loại trừ

Nhưng tôi viết những điều này không phải vì tôi muốn cách tân tư duy người nữ hay dạy đời và đưa ra những câu trả lời dễ dàng cho một vấn nạn không chỉ gói gọn trong chuyện hình thù. Tất nhiên chúng ta cần yêu bản thân mình, nhưng điều kiện để yêu bản thân mình không phải là phải tuân thủ theo chuẩn mực xã hội, không phải là tiêu thụ những hàng hóa dịch vụ và các ngành công nghiệp được tạo ra dựa trên nỗi căm ghét cơ thể bản thân của người nữ (thuốc giảm cân, phẫu thuật thẩm mỹ, các loại quần áo lót tôn dáng, thời trang, mỹ phẩm, etc) để cảm thấy bản thân mình có giá trị. Lăng nhục hình thể phải được gọi đúng cái tên của nó, là một loại hình “loại trừ sự khác biệt” tiên quyết của quyền lực thống trị xã hội - tại Việt Nam và nhiều đất nước khác - là nam quyền. Nói cách khác, lăng nhục hình thể là một hình thái của việc cơ thể sinh học và căn tính nữ bị định đoạt và điều khiển bởi hệ thống tư tưởng phụ hệ duy dương (phallocentric), trong đó nỗi ô nhục béo gầy chỉ là một ví dụ, nếu đào sâu xa thêm thì sẽ có cả tiêu chuẩn cái đẹp đến tận chân răng mà người nữ phải tuân thủ - và tiêu chuẩn cơ thể này không chỉ được dùng để áp dụng lên người nữ mà còn để quyết định nam tính (đàn ông không được ẻo lả) và đối với người chuyển giới (trông có “pass” hay không). Theo như chữ của Michel Foucault, đây chính là một dạng quyền lực chính trị sinh học (biopolitics/biopower) trong đó thể chế nhà nước hiện đại tạo ra những thể chế kiến thức và lẽ phải để quy định cách các cá thể (công dân) phải sống nhằm điều khiển quần thể dân cư một cách cận thiết nhất.

Ở đây phải nói thêm một chút về quyền lực phụ hệ (patriarchy) - theo lối tiếp cận cũ của nhiều ngành như xã hội học, hay women’s studies, hay giới/tính học (gender and sexualities studies) mà bây giờ đã trở thành một dạng “lẽ thường” (commonsense) thì người ta hay hiểu quyền lực phụ hệ là thể chế xã hội do đàn ông nắm quyền và quyết định mọi mặt của xã hội nên bởi vậy mà đàn bà bị loại trừ và không được bình đẳng như đàn ông. Cách hiểu này có thể cho là phổ biến trong xã hội Mỹ đương đại, ngay cả ở Việt Nam, dù cho các trường phái nữ quyền luận mà tôi sẽ nhắc tiếp sau đây cũng tồn tại song song. Đây là một diễn ngôn quan trọng của nhóm nữ quyền da trắng, sở hữu thứ chính trị được ghim chặt bởi quan niệm giới truyền thống, chỉ cần thêm thắt thay đổi một số mặt là được. White feminism, nhất là trong thời điểm hiện tại, là những quan điểm được coi là “tiến bộ” bởi vì nó đề đạt và chống lại một số vấn đề bức thiết: bạo hành gia đình, phân biệt giới trong lao động, lao động tái sản xuất trong gia đình, lăng nhục hình thể, tóm gọn lại là những âu lo hợp lý về việc “người nữ” trong xã hội bị đối xử theo cái cách mà “người nam” không bị hoặc nếu có thì cũng không thê thiết bằng. Bởi vậy những đòi hỏi của cách tiếp cận này dường như trở nên ngắn hạn, và theo một cách nào đó, không thực sự dò hỏi tận ngọn nguồn của vấn đề, mà lại dễ trở nên bằng lòng với những sự “đền bù” vật chất hoặc tinh thần. Ví dụ, thay vì thách thức cội nguồn và bản chất của một thể chế đã tạo ra và hưởng lợi trên sự phân tầng (về mọi mặt: chuẩn mực/dị biệt về giới, chủng tộc, tính, giai tầng, vùng miền, dân tộc, quốc gia, pháp lý, cơ thể), những giải pháp được đưa ra lại là “thêm các gương mặt đại diện” vào bộ máy cầm quyền hay các vị trí đặc quyền đặc lợi - chúng ta tung hô những nữ tỷ phú chẳng hạn, cho rằng người nữ như một “ca thành công” sẽ đại diện cho toàn bộ giới nữ, mà không đặt câu hỏi thế còn những người nữ lao động (khả năng cao là bị bóc lột) để những nữ chủ nhân ấy được vinh danh là một tấm gương nữ quyền thành công chẳng hạn. Chúng ta đếm cá thể giới như những gương mặt đại diện cho bình quyền xã hội mà không nghĩ sâu hơn về việc nhân dạng hay căn tính của một cá thể không bao giờ chỉ là độc diện - tôi không chỉ là người có cơ thể sinh học (được gán là) nữ và được cho là “không khuyết tật,” tôi còn trình độ học vấn, điều kiện kinh tế, vùng miền, quốc gia - tất cả những yếu tố này tổng hợp thành nhân dạng của tôi trong xã hội và mạng lưới giao tầng này sẽ quyết định vị thế của tôi trong xã hội.

Như nhà triết học lesbian Judith Butler đã viết về cách mà các ngành học về nữ và tính nữ đã tiền giả định một đặc thù giới phổ quát/toàn thể của người nữ như thể sẽ có một hình nhân nữ chung chung có thể đại diện cho mọi tranh chấp và áp bức về giới, các nhà nữ quyền da màu xuất phát từ nữ luật sư Mỹ Phi Kimberle Crenshaw đã tạo ra một khái niệm có tên intersectionality, ở đây xin tạm dịch là giao-tầng của nhân dạng xã hội (Trần Ngọc Hiếu dịch là “giao cắt” trong bài viết “Dẫn nhập về tự sự học nữ quyền luận” nhưng tôi cho rằng giao cắt nghe giống như chỉ có một điểm chung, trong khi đó tính chất của khái niệm giao tầng là giao điểm của các tầng căn tính xã hội như chủng tộc, phái tính, giới dục, giai tầng, vv), nói về sự đặc thù của từng cá thể được định hình theo chuẩn xã hội theo đó đặc quyền đặc lợi xã hội (privilege) mà các cá thể nhận được sẽ tùy thuộc vào việc cá thể đó khác chuẩn ở bao nhiêu “tầng” nhân dạng. Nôm na, trong xã hội Việt Nam chẳng hạn, nam giới - dị tính - tầng lớp thượng lưu - có học thức - “nhà mặt phố bố làm to” - cơ thể không lệch chuẩn sinh học - người Kinh sẽ là nhóm người “tiêu chuẩn” và hưởng đặc quyền xã hội nhiều nhất, và những nhóm người khác sẽ tùy theo từng sự lệch chuẩn mà chịu những đè nén khác nhau. (Cuộc tranh cãi gần đây về mâu thuẫn giai tầng giữa người Kinh và các nhóm người dân tộc thiểu số chưa kể người nữ dân tộc thiểu số cũng không được chỉ ra một cách rõ rệt cũng là một ví dụ cho cái gọi là đặc quyền xã hội dựa trên vùng miền/dân tộc).

Trong bài luận của mình, “Mapping the Margins: Intersectionality, Identity Politics, and Violence against Women of Color” (Tạm dịch: “Kẻ đường ngoại biên: căn tính giao tầng, chính trị nhân dạng, và sự bạo hành người nữ da màu”), Crenshaw đã viết về cách mà “cơ cấu thống trị chủng tộc, giới, và giai tầng [bên cạnh những yếu tố nhân dạng xã hội khác như đã kể trên] hội tụ” trong việc định dạng trải nghiệm sống của phụ nữ da màu nghèo, đặc biệt là những nạn nhân của bạo hành gia đình hoặc lạm dụng tình dục, khi những biện pháp can thiệp của pháp luật và xã hội chủ yếu dựa trên kinh nghiệm giải quyết các vấn đề của nhóm phụ nữ khác giai tầng và chủng tộc (da trắng, trung lưu chẳng hạn) không thể áp dụng với họ. Tuy tập trung nói về các ca bạo hành, khái niệm căn tính giao tầng của Crenshaw đã mở ra một cách tiếp cận cho nhóm nữ quyền da màu và cùng với những tác phẩm của những nhà nữ quyền khác như Borderlands của Gloria Anzaldúa, This Bridge called my back của Cherrie Moraga, khái niệm này đánh dấu cách tiếp cận giao tầng trong nữ quyền luận và mở đường cho việc đặt đề cho bất bình đẳng giới không chỉ với tư cách một hiện tượng riêng biệt mà vào trong mối tương quan mật thiết với mọi loại bất bình đẳng xã hội - nói cách khác, mọi bất bình đẳng xã hội đều giao tầng với nhau.

Sau này, trường phái phê phán của người Dị giới da màu (tạm dịch từ “queer people of color’s critiques”)do Roderick Ferguson đã lấy cảm hứng từ trào lưu nữ quyền luận da màu (women of color feminism)kể trên để mở rộng lý thuyết về quyền lực thống trị nam quyền trong xã hội Mỹ. Lối tiếp cận dị giới da màu đã thảo luận thêm về việc tính dục, cũng như giới, chủng tộc, và giai tầng, là một phần của cơ thế thống trị, và đưa ra khái niệm heteronormativity (chuẩn mực dị tính) một cách nào đó để mở rộng khái niệm căn tính giao tầng, trong đó nêu rõ ra rằng quyền lực thống trị của nhà nước (thậm chí rộng hơn, từ quá khứ thực dân đế quốc) thực chất là dựa trên hệ thống quy chuẩn về giới, chủng tộc, giai tầng, tài sản, etc để loại trừ và đàn áp những nhóm người “không thể” theo đúng chuẩn. Và chuẩn mực dị tính duy dương này tạo tiền lệ để có những căn tính có thể thỏa hiệp được (giai tầng) và những cái không thể vượt qua (cơ thể - điều thú vị là có những trường hợp người chuyển giới nếu có đủ điều kiện kinh tế để tiếp cận với các biện pháp y tế và chấp nhận chuẩn dị tính để phẫu thuật, tiêm hormone, chuyển giới nhưng vẫn theo đuổi quan hệ quan hệ dị tính thì vẫn dễ dàng được chấp nhận về mặt văn hóa, tuy về mặt pháp lý thì rắc rối hơn nhiều).

Để kết bài vì đã quá dài

Tất nhiên, những học giả này viết dựa vào bối cảnh địa chính trị là Mỹ, mối quan hệ xã hội trong lòng nước Mỹ, và có thể đọc đến đây các bạn cũng ù tai không hiểu những điều này liên quan gì đến Việt Nam hay câu chuyện béo gầy của tôi, thì tôi cũng nhắc lại cho rõ hơn lần nữa luận điểm của tôi theo kiểu tl;dr (quá dài không đọc nổi): câu hỏi ở đây là tôi nghĩ gì khi nghĩ về văn hóa lăng nhục hình thể đối với người nữ, đặc biệt ở Việt nam? Tôi nghĩ chúng ta cần trao đổi nhiều hơn về nguồn cơn hình thành ý thức hệ nam quyền và tư duy phân biệt giới không chỉ đơn thuần là về mặt quan điểm hoặc đạo đức cá nhân (chê nhau béo gầy nghĩa là xấu tính) hoặc chỉ giới hạn cuộc tranh luận trong một khuôn khổ mù mờ của “bất bình đẳng giới” hay tệ hơn là thái độ đổ lỗi cho cá nhân (”nó không muốn bị chê thì lo mà giảm béo”), mà tôi muốn giới thiệu những lý thuyết và ngôn ngữ cần thiết để mở rộng chủ đề ra thành cuộc đối thoại về các loại hình chuẩn mực xã hội, lý do chúng được sinh ra, cơ cấu hoạt động của chúng, và những hệ quả trước mắt và lâu dài - một trong số đó là ví dụ nhãn tiền đã được bình thường hóa đến mức chúng ta nói hàng ngày mà không hề nghĩ đến.